Trước đây cây gai được trồng chủ yếu để lấy sợi làm lưới đánh cá, làm bánh,… Tuy nhiên, ngày nay công dụng của cây gai còn được biết đếnhư một loại thuốc hỗ trợ điều trị nhiều loại bệnh hiệu quả như: giúp thanh nhiệt, tán ứ, an thai, lợi tiểu,…
Nội dung
Thành phần hóa học của cây gai
Rễ chứa flavonoid rutin. Toàn cây có acid cyanhydric. Hạt có dầu béo, nhiều acid tự do.
Trong 100g cây gai có chứa: nước, protein 85,3g, chất béo 0,5g, carbohydrates 5,4g, chất xơ 3,1g, tro 2g, vitamin A (beta caroten) 1,15mg, B1 (thiamine) 0,2mg, 0,39mg vitamin B5, 0,3mg pyridoxine, 0,1mg folic acid, 30mcg vitamin C, 333mg vitamin E, 0,8mg vitamin K, 498,6mcg biotin, 0,5mcg choline, 17,4mg kali, 334mg canxi, 481mg magiê, 57mg sodium, 80mg photpho, 71mg chlorine, 150mg sắt, 1,64mg mangan, 779mg đồng, 76mcg selenium, 0,3mg kẽm…
Công dụng của cây gai
An thai: Rễ cây gai mới hái hoặc phơi khô 30g sắc với 600ml nước, cô làm 200ml, chia làm 3 lần uống trong ngày. Chỉ 1 – 2 ngày là có kết quả, không nên kéo dài.
Dưỡng huyết an thai: Trữ ma căn tươi 50g, hồng táo 10 quả, gạo nếp 100g; sắc trữ ma căn lấy nước nấu với gạo và hồng táo thành cháo, chế thêm gia vị, chia ra ăn vài lần trong ngày.
Trị động thai: Rễ gai mới lấy hoặc đã phơi khô 30g, sắc với 600ml nước, còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Uống 1 – 2 ngày sẽ đỡ.
Trị phụ nữ có thai ra huyết dọa sảy, có thai bị đau bụng: Rễ gai tươi 4 phần, tía tô 1 phần, lá ngải cứu 1 phần (mỗi phần 12g), sắc với nước uống trong ngày.
Trị có thai bị đau bụng, động thai: Rễ gai 2 phần, cành tía tô 2 phần (mỗi phần 4g), băm nhỏ, phơi khô sắc với 400ml nước, cỡ còn 100ml uống hết 1 lần trong ngày. Nếu có rỉ máu thì cho thêm 10g lá huyết dụ.
Trị sa tử cung: Rễ gai khô 30g sắc với 600ml nước, uống nhiều lần trong ngày. Uống liền 3 – 4 ngày.
Cầm máu vết thương: Lá gai tươi rửa sạch, giã nát đắp vào vết thương, băng lại.
Làm cầm máu: Trong dân gian, khi muốn cầm máu vết thương, người ta rửa sạch lá, giã nát, đắp vào, thấy có tác dụng cầm máu tốt.
Trong y lý của Đông y, máu màu đỏ thuộc hỏa, lá gai khi giã nát có màu đen thuộc hành thủy. Trong ngũ hành, thủy khắc hỏa cho nên lá gai có thể cầm được máu.
Song theo dược lý hiện đại, lá gai có chlorogenic acid, flavonoid rhoifolin, apogenin. Chlorogenic acid thủy phân cho acid cefeitannic và quinic; do đó lá bánh gai có tính cầm máu.
Làm lợi tiểu: Rễ và lá trung bình 10 – 30g sắc với nước uống.
Trị tiểu buốt, tiểu rắt, sạn thận: Theo sách Nam dược thần hiệu (Tuệ Tĩnh) kết hợp rễ gai, hoa mã đề và hành; sắc nước uống.
Trị đại, tiểu tiện ra máu: Lấy 15 – 20g lá gai sắc nước uống trong ngày.
Trị phong thấp đau nhức các khớp: Rễ cây tầm gai (trữ ma căn), 50g, ngâm với 1 lít rượu trong 1 tuần. Sau đó, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10ml.
Trị tay chân tê mỏi: Rễ cây gai 15 – 20g, sắc uống trong ngày.
Lưu ý:
Cây gai có thể được coi là một loại rau, vì nó có nhiều vitamin (A, C, B2, B5, B9 và K, kẽm và đồng) cùng nhiều khoáng chất… Khi được luộc chín, cây gai không còn gây ngứa nữa (gai đã mềm, không còn acid) và nước rau khá ngon (mùi hơi giống canh rau dền). Bánh gai để lâu được là nhờ chlorogenic có tính chống nấm và vi khuẩn. Thị trường có bánh gai giả (nhuộm nâu) chỉ để vài ngày là mốc do không có lá gai (thiếu chlorogenic). Không phải bệnh thực nhiệt không dùng.
Tổng hợp