Để làm thuốc, người ta chỉ dùng cây khế chua. Tất cả các bộ phận của cây khế, kể cả cây tầm gửi sống ký sinh trên đó đều được dùng chữa bệnh.
– Vỏ rễ hoặc vỏ thân cây khế. Cạo hết lớp vỏ xanh và rêu mốc bên ngoài, rửa sạch, thái nhỏ, sao vàng, lấy 20g phối hợp với vỏ rễ đơn châu chấu 8-12g, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày, chữa viêm họng, viêm amidan, ho lâu ngày; phối hợp với vỏ quít lâu năm để chữa ho gà.
– Lá khế 20g, rửa sạch, nấu nước uống ngày hai lần, mỗi lần nửa bát con, chữa ho suyễn ở trẻ em. Lá khế tươi 20g, giã với lá chanh 10g, thêm nước, gạn uống, chữa cảm nắng. Lá khế dùng riêng hoặc phối hợp với lá muồng truổng, mỗi thứ 20g, giã nát, gói vào vải sạch, xát đều chữa lở sơn. Có thể kết hợp uống nước sắc vỏ núc nác. Lá khế, lá chổi xuể, lá long não và lá thông, để tươi, nấu nước tắm chữa lở loét. Để chữa ngộ độc nấm, rắn cắn, lấy lá khế, lá hoặc quả đậu ván đỏ, mỗi thứ 20g, lá lốt 10g, dùng tươi, giã nát, hòa với 200ml nước sôi để nguội, chắt lấy nước uống làm một lần. Có thể dùng lá khô (liều lượng bằng 1/2 hoặc 1/3 liều lá tươi) sao qua cho thơm, sắc uống, thêm đường cho thật ngọt. Nếu mới bị ngộ độc, chỉ uống 2-3 lần là khỏi.
Trong thời gian có dịch sốt xuất huyết, hằng ngày uống nước sắc lá khế 16g, lá dâu 12g, lá tre 12g, sắn dây 12g, mã đề 8g, sinh địa 8g, có tác dụng phòng bệnh.
– Hoa khế được dùng với tác dụng thanh nhiệt sát khuẩn, giảm ho. Chữa đậu, sởi: Hoa khế 16g, rễ cây canh châu 16g, thái nhỏ, sao vàng sắc uống làm hai lần trong ngày. Chữa ho khan, ho có đờm, kiết lỵ: hoa khế 12g, tẩm nước gừng, sao sắc uống. Chữa sốt cao, kinh giật ở trẻ em: hoa khế 8g, hoa kim ngân 8g, lá dành dành 8g, cỏ nhọ nồi 8g, cam thảo 4g, bạc hà 4g. Tất cả phơi khô, tán bột rây mịn, mỗi lần uống 4g với nước ấm.
– Quả khế: Dùng riêng, nước ép quả khế uống hằng ngày cung cấp lượng vitamin C khá cao cho cơ thể chống bệnh viêm loét chân răng (scorbut) và chữa ngộ độc.
Dùng phối hợp, Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã lấy 7 quả khế, cắt mỗi quả lấy một miếng khoảng 1/3 phía gần cuống, đổ vào một bát nước, sắc còn nửa bát, uống lúc nóng; đồng thời lấy một quả khế giã nát với một củ tỏi, đắp vào rốn để chữa tiểu tiện không thông. Để chữa sốt cao, co giật ở trẻ em, lấy quả khế 10g, lá dây đòn gánh 10g, lá ngải cứu 8g, lá nhọ nồi 8g, rễ táo rừng 6g phơi khô, sao vàng sắc uống. Phụ nữ sau khi sinh dùng nước sắc quả khế 20g với vỏ cây hồng bì 30g, rễ sử quân 20g, uống rất tốt.
Dùng ngoài, nấu nước sắc quả khế cho đặc dùng rửa vết thương, mụn nhọn, lở loét.
– Hạt khế 9 hạt, phơi khô, nhai nuốt nước là thuốc chữa đẻ khó, sót rau.
– Tầm gửi cây khế thái nhỏ, lấy 20g, sao vàng, sắc uống chữa sốt, sốt rét, ho gà; phối hợp với tầm gửi cây duối 20g, rau má 20g, lá hẹ 10g, bạc hà 10g, sắc đặc, thêm mật ong đủ ngọt, uống chữa ho và hen sữa trẻ em.
Dược sĩ ĐỨC HUY
Nguồn: Cây cỏ và thuốc Nam. Công Trứ sưu tầm